Phát triển sản phẩm nuôi rong biển |
Thứ ba, 23/01/2024, 10:55 GMT+7 |
Ở Việt Nam, hiện có hơn 887 loài rong tự nhiên, diện tích có tiềm năng cho trồng rong biển ở nước ta khoảng 900 nghìn ha trong khi diện tích trồng rong biển hiện nay mới khoảng hơn 16 nghìn ha.
Ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản, Bộ NN&PTNT - Ảnh: VGP/Đỗ Hương Tiềm năng nuôi rong biển còn rất lớn Theo Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản III (tại Nha trang), tại Việt Nam đã phát hiện có hơn 887 loài rong tự nhiên, trong đó có 88 loài có giá trị kinh tế, với 3 nhóm loài chính gồm rong sụn, rong câu, rong nho. Khu vực biển miền Trung có số lượng loài rong biển phân bố nhiều nhất với 310 loài, tiếp đến là khu vực biển miền Nam tìm thấy 221 loài rong biển, trong vùng biển thuộc Vịnh Bắc Bộ đã xác định được 218 loài rong biển tự nhiên. Nghiên cứu tại các đảo tiền tiêu của nước ta, đã ghi nhận được 375 loài rong biển thuộc 62 họ, 26 bộ của 4 ngành rong. Trong đó, ngành rong Lam có 16 loài, ngành rong Đỏ có 193 loài, ngành rong Nâu (Phaeophyta) có 72 loài và ngành rong Lục có 94 loài. Các đảo tiền tiêu khu vực biển miền Trung có thành phần loài rong biển đa dạng hơn so với khu vực miền Bắc và miền Nam. Cụ thể, thành phần loài đa dạng nhất ghi nhận tại Lý Sơn với 143 loài, tiếp đến tại Phú Quý ghi nhận 136 loài, Bạch Long Vỹ ghi nhận 112 loài, 3 đảo gồm: Cồn Cỏ, Côn Đảo, Nam Du cùng ghi nhận được 96 loài, Trường Sa lớn ghi nhận 81 loài, Cô Tô ghi nhận 79 loài và Vĩnh Thực ghi nhận 70 loài. Ông Trần Đình Luân, Cục trưởng Cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) cho biết, hiện nay trên thế giới có khoảng 200 loài rong biển có giá trị thương mại, trong đó 27 loài được nuôi trồng chính. Tổng sản lượng rong biển hơn 36 triệu tấn (35 triệu tấn rong trồng), giá trị ước đạt hơn 8,3 tỷ USD. Diện tích có tiềm năng cho trồng rong biển ở nước ta khoảng 900 nghìn ha. Năm 2023, diện tích trồng rong biển khoảng 16.500ha, sản lượng 150 nghìn tấn. Theo ông Luân, ngành hàng rong biển của nước ta hiện tại đang có nhiều cơ hội để phát triển như thị trường toàn cầu tăng trường trên 10%/năm; khả năng hấp thụ CO2 nhanh gấp 5 lần thực vật cạn là cơ hội để có thể bán các tín chỉ các bon; xu thế sử dụng thực phẩm, năng lượng xanh; hoạt chất của rong tảo có thể sử dụng vào nhiều lĩnh vực như dược phẩm, mỹ phẩm, thức ăn chăn nuôi, phân bón sinh học… Ông Trần Đình Luân cũng phân tích: Trong chiến lược thủy sản của Việt Nam là giảm khai thác, đặc biệt là khai thác gần bờ, chuyển sang phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản với rất nhiều đối tượng như cá, tôm…, rong biển cũng là đối tượng có nhu cầu rất lớn, không chỉ trong nước mà cả thị trường xuất khẩu. Nuôi rong sụn - Ảnh minh họa Cần đa dạng sản phẩm từ rong biển Cục trưởng Cục Thủy sản nhìn nhận: "Về phát triển rong biển của Việt Nam hiện nay mới chỉ là kết quả ban đầu. Để ngành rong biển phát triển ổn định trong thời gian tới, ngay từ bây giờ cần phải nghiên cứu, chọn tạo để có được những giống rong chất lượng, phục vụ cho những mục đích khác nhau như lĩnh vực thực phẩm hoặc cho lĩnh vực dược phẩm. Tiếp đến là công nghệ trồng để có thể đạt sản lượng cao nhất, rút ngắn thời gian trồng, đặc biệt là đạt chất lượng xuất khẩu". Tuy nhiên, cũng đối diện với không ít thách thức như chất lượng giống còn hạn chế; cạnh tranh diện tích với các ngành kinh tế khác; thiếu các tiêu chuẩn, quy chuẩn; ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu… Trên cơ sở đó, chúng ta đặt ra mục tiêu đến năm 2025, sản lượng rong biển đạt 180.000 tấn; đến năm 2030 đạt 500.000 tấn. Để đạt được mục tiêu này, trong thời gian tới, ngành rong biển Việt Nam sẽ tập trung phát triển nuôi trồng gần bờ các tỉnh từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, với đối tượng chính là rong nho, rong câu chỉ vàng, rong sụn. Bên cạnh đó, phát triển nuôi trồng xa bờ tại các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang và một số địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Đối tượng trồng chính là rong sụn và giống nhập. Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan nhấn mạnh, ngành nông nghiệp đang tập trung giải quyết các vấn đề lớn như biến đổi khí hậu, biến động thị trường, biến chuyển xu thế tiêu dùng. Do đó, ngành hàng rong biển muốn phát triển phải giải quyết cùng lúc được những vấn đề này. Bộ trưởng lưu ý các đơn vị, doanh nghiệp phát triển nuôi trồng, chế biến rong biển ngoài việc tập trung nâng cao giá trị sản phẩm cần quan tâm hơn nữa tới việc xây dựng hệ sinh thái ngành hàng; tạo nhiều việc làm cho lực lượng ngư dân chuyên khai thác, giúp họ chuyển đổi ngành nghề phát triển nuôi trồng bền vững. Song song đó, doanh nghiệp phải thay đổi tư duy, nhận thức không chỉ bán sản phẩm rong biển thông thường, thu lợi nhuận mà đang bán giá trị dinh dưỡng cho người tiêu dùng. Sản phẩm do mình tạo ra có tác động lớn tới sức khỏe giống nòi. Từ đó, không ngừng hoàn thiện quy trình chất lượng từ con giống, sản xuất, chế biến, bảo quản… Bộ trưởng yêu cầu Cục Thủy sản, hướng dẫn, đồng hành cùng các doanh nghiệp nghiên cứu thành lập Hiệp hội ngành hàng rong biển; tạo môi trường thuận lợi để cùng nhau kiến tạo không gian giá trị mới cho ngành hàng rong biển. Đồng thời, nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện kế hoạch, quy hoạch, tiêu chuẩn để các địa phương có căn cứ đánh giá đúng giá trị của ngành hàng rong biển, từ đó có những chủ trương, chính sách phát triển phù hợp. (nguồn: baochinhphu.vn) Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:
Xem thêm các bài viết cùng chủ đề với bài viết (phía trên):
|